hoa sen

Tổ nghề may: Thánh sư Nguyễn Thị Sen
Ngày giỗ tổ: 12 tháng chạp hàng năm (12/12 âm lịch)
Đền thờ tổ tại: làng Trạch Xá - xã Hòa Lâm - Ứng Hòa - Hà Nội

Trang phục cung đình Huế - Tuyệt tác nghệ thuật

    Trang phục là một trong những yếu tố phản ánh dấu ấn văn hóa trong mỗi thời đại và là một thành tố quan trọng tạo nên lối sống của một vùng, một dân tộc.

    Qua cách trang phục, có thể biết được mức sống và đời sống thẩm mỹ của con người qua các giai đoạn trong tiến trình phát triển của dân tộc; thấy được khoảng cách giữa các tầng lớp trong xã hội. Chính vì vậy, khi tìm hiểu đời sống xã hội của Việt Nam dưới vương triều Nguyễn nói riêng và văn hóa Huế nói chung, chúng ta không thể bỏ qua một di sản đặc sắc, đó là trang phục cung đình Huế.

    Trang phục cung đình Huế

    Trang phục cung đình Huế còn lại đến ngày nay khá phong phú, gồm trang phục của vua, hoàng thái hậu, hoàng thái tử, hoàng tử, trưởng công chúa và các quan văn võ trong triều. Chúng đều là những tác phẩm nghệ thuật tuyệt tác được làm ra theo quy định của Bộ Lễ, qua bàn tay chế tác tài hoa của các nghệ nhân.

    Trang phục cung đình Huế không chỉ đơn thuần là những bộ quần áo quý, những cổ vật vô giá mà còn là những tác phẩm nghệ thuật, những sử liệu bất thành văn rất cần thiết cho việc nghiên cứu lịch sử, văn hóa thời Nguyễn trên đất Huế.

    Các nhóm trang phục

    Trang phục của các bậc vua chúa nhà Nguyễn có nhiều loại và mỗi loại có tên gọi riêng, màu sắc riêng và chỉ mặc trong những dịp cụ thể, có thể phân thành các nhóm: Trang phục thiết đại triều, trang phục thiết thường triều, trang phục nghi lễ và thường phục. Mỗi nhóm bao gồm áo, mũ, đai, quần, giày ủng, hia hài... được may theo cách thức riêng, có tên gọi riêng và có màu sắc hoa văn khác nhau.

    Mũ thiết đại triều của vua gọi là mũ cửu long, áo gọi là long bào, trang trí rồng mặt nạ, đi kèm với nó là ủng thêu đôi rồng bằng kim tuyến có nạm vàng.

    Mũ thiết thường triều của vua gọi là mũ bình thiên, áo gọi là hoàng bào, thêu viên long nạm trân châu, tơ vàng, đi kèm với nó là đôi hài thêu rất cầu kỳ.

    Mũ dùng trong dịp vua tế Nam Giao là miện, áo gọi là cổn, màu đen, tay thụng thật lớn, thêu lưỡng long triều nhật dọc hai thân trước.

    Áo vua mặc đi cày ruộng thêu rồng nhỏ trong các cụm mây, màu gạch non, gọi là hồng bào. Trong khi đó, mũ của thái tử, tuy rất giống mũ bình thiên của vua, nhưng lại gọi là mũ bình đính.

    Về chất liệu

    Chất liệu các loại vải dùng để may áo mũ cho vua chúa, hoàng thân quốc thích đều là cao cấp. Triều đình thường đặt mua ở Trung Hoa hay các hộ dệt lụa vải riêng biệt cho cung đình các loại gấm vóc, sa nam, nhiễu lụa... Nhiều làng nghề truyền thống ở Việt Nam cũng tiến nộp các mặt hàng dệt chất lượng cao thay cho tiền thuế. Các loại vải thường dùng để may áo mũ cho đế hậu là sa (để may áo bào), đoạn (may thường phục), tơ (để trang trí, may bít tất), lụa (may áo thường triều, khăn choàng)...


    Trên áo mũ thường đính vàng bạc, trân châu, kim cương... để tăng thêm giá trị và uy nghi. Trên chiếc mũ vua đội lúc thiết đại triều có đính 31 hình rồng bằng vàng tốt; 30 đóa hoa vuông có khảm ngọc, kim cương và trân châu đính kèm lên đến 140 hạt. Mũ của hoàng hậu có chín con rồng, chín con phượng bằng vàng tốt, chín miếng bồn khoan bằng bạc, bốn cái ống trâm bằng bạc có gắn 198 hạt trân châu và 231 hạt pha lê. Tất cả áo mũ, xiêm y, hài ủng của vua, hậu cho đến phi tần, cung giai, tùy theo thứ bậc mà đính vàng bạc, trân châu nhiều hay ít nhưng cái nào cũng có.

    Về màu sắc

    Cách phục sức của vua, quan và hoàng thân quốc thích triều Nguyễn cũng được quy định nghiêm ngặt bởi phẩm trật (trật tự của cấp bậc). Các bậc vạn tuế như vua, hoàng thái hậu được dùng màu chính hoàng, tức màu vàng; các bậc thiên tuế như hoàng thái tử dùng màu da cam; các bậc thân vương, hoàng tử và trưởng công chúa mặc màu xích tử (đỏ); các phi tần mặc áo đại hồng (hồng), cổ đồng (đồng) hoặc cam bích (tím biếc) tùy theo cấp bậc.

    Trong tế lễ Nam Giao và kỵ phục thì dùng màu huyền (đen). Đối với trang phục thường triều, vua dùng màu vàng, còn lại từ các thân vương, hoàng tử cho đến các quan đều dùng màu xanh lam, lục và đen, nhưng phổ biến là màu xanh lam.

    Về đề tài trang trí


    Đề tài trang trí trên trang phục cung đình triều Nguyễn cho thấy sự phân chia thứ bậc được tuân thủ nghiêm ngặt. Hầu hết chúng đều được trang trí rất cầu kỳ và mang nhiều ý nghĩa biểu trưng khác nhau. Phổ biến nhất là long (rồng) - một hình tượng xuyên suốt trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam, tượng trưng cho vương quyền, độc tôn của nhà vua, còn gọi là long bào. Cùng với hoa văn hình phụng (phượng), quy (rùa), lân (sư tử) hợp thành tứ linh mang hàm nghĩa của sự quyền quý.

    Áo vua trang trí rồng, áo hoàng tử trang trí lân, áo hoàng hậu, công chúa thêu hoa và chim phượng.

    Mũ đại triều của vua có chín rồng hướng thiên bằng vàng; mũ hoàng hậu có chín con rồng, chín con phượng; mũ hoàng thái hậu chỉ thêu chín con phượng; mũ của cung giai thì tùy theo thứ bậc mà có từ 1-7 chim phượng...

    Cũng là đề tài rồng nhưng rồng trên áo vua thì có năm móng, rồng trên áo thái tử cũng có năm móng nhưng chỉ là rồng mặt nạ, không được trang trí phi long hay hồi long chầu nhật... Nếu trên áo vua, hậu trang trí những con rồng với dáng vẻ uy nghi, đường bệ thì trên áo mũ của hoàng thân, tôn tước chỉ là những con mãng, con giao (hóa thân ở thứ bậc thấp hơn của rồng).

    Trên áo mũ của hoàng thái hậu và hoàng hậu trang trí đồ án hoa đoàn phượng (là bông hoa tròn trong có hình hai con phượng), với những nét vẽ, đường thêu rất sống động, công phu, thì phượng hoàng trên áo của cung giai chỉ là những hình ảnh giản lược, cách điệu và số đồ trân châu đính kèm cũng ít hơn. Chỉ có trên áo vua, hậu người ta mới trang trí thêm các hoa văn tứ thời, bát bửu, còn trên áo mũ của vương tôn và cung giai, bát bửu được thay thế bằng những cổ đồ.

    Ngay cả chữ Hán trang trí trên áo mũ cũng có sự phân biệt. Áo vua thường trang trí nổi các chữ Phúc, Lộc, Thọ đại tự theo lối chân hoặc triện, trong khi đó các chữ Phúc, Lộc, Thọ trên áo phụ nữ thường nhỏ hơn và dệt chìm trên mặt vải, không nạm trân châu hay thêu kim tuyến như trên áo mũ của vua.

    Quy định nghiêm ngặt là vậy nhưng đôi lúc cũng có những phá lệ rất thú vị. Chiếc áo thiết thường triều của vua Khải Định hiện lưu giữ ở Bảo tàng Mỹ thuật cung đình Huế ngoài hoa văn rồng mây, thủy ba như thông lệ còn điểm xuyết 18 đóa hồng nhưng thêu kim tuyến và chỉ bóng cùng hai bông cúc đại đóa ở trước ngực và sau lưng. Trên một áo khác của vua còn có hình chim phượng đối mặt với rồng trong vầng mây hình cầu.

    Khải Định là con người màu mè, chuộng sự mới lạ, kỳ dị nên không chỉ trong trang phục mà cả trong cung điện, lăng tẩm của vua, cái cá tính độc đáo đó của nhà vua cũng “ló dạng” ở nhiều nơi mà Thiên Định Cung là một ví dụ cụ thể.

    Trên phương diện mỹ thuật, mỗi một bộ trang phục của các bậc đế hậu thời Nguyễn chính là một tác phẩm nghệ thuật. Đó là sự kết hợp của nghệ thuật may thêu, hội họa với nghề kim hoàn. Phong cách trang trí mang một nét thuần Nguyễn từ các họa tiết rồng mây đến hồi văn thủy ba, chữ thọ... Những mô típ ấy đã xuất hiện rất nhiều trong trang trí cung đình Huế trên các chất liệu gỗ, đồng, gốm sứ... cũng như việc trang trí trên các chất liệu khác, trang trí trên vải cũng có sự biến chuyển qua từng thời đại và mỗi giai đoạn lịch sử, để lại những dấu ấn khó phai mờ trên các tác phẩm ấy.

    Cùng với các di vật lịch sử khác, trang phục cung đình Huế đã tạo nên một nét văn hóa đặc trưng của vương triều Nguyễn - vương triều cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam.

    Hiện nay, sưu tập trang phục cung đình Huế đang được lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, số 1 Phạm Ngũ Lão, Hà Nội và Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế, số 3 đường Lê Trực, thành phố Huế./.

    Phương Dung (TTXVN/Vietnam+)