hoa sen

Tổ nghề may: Thánh sư Nguyễn Thị Sen
Ngày giỗ tổ: 12 tháng chạp hàng năm (12/12 âm lịch)
Đền thờ tổ tại: làng Trạch Xá - xã Hòa Lâm - Ứng Hòa - Hà Nội

Kimono

    Kimono (着物 "đồ để mặc"; hoặc 和服 Hòa phục, nghĩa là "y phục Nhật") là loại y phục truyền thống của Nhật Bản.

    Kimono dành cho phụ nữ chỉ có một cỡ duy nhất, người mặc cần phải bó y phục lại cho phù hợp với bản thân mình. Kimono có 2 loại, tay rộng và tay ngắn. Phụ nữ đã lấy chồng thường không mặc loại tay rộng, vì rất vướng víu khi làm việc. Khi mặc kimono phải mặc juban trước, là một áo kimono lót để bảo vệ kimono khỏi dơ, sau đó cuốn bên phải vào trước, bên trái vào sau, và thắt lại bằng thắt lưng Obi làm bằng lụa, rất đắt tiền. Nếu quấn bên trái trước nghĩa là bạn sắp đi dự tang lễ. Việc mặc kimono rất mất thời gian, và hầu như không thể tự mặc. Người mặc kimono phải đi guốc gỗ, và mang bít tất Tabi màu trắng.

     

    Người Nhật đã sử dụng kimono trong vài trăm năm. Ngày nay, kimono thường chỉ được sử dụng vào các dịp lễ tết. Phụ nữ Nhật mặc kimono phổ biến hơn nam giới, thường có màu và hoa văn nổi bật. Phái nam dùng kimono chủ yếu trong lễ cưới và buổi lễ trà đạo, và kimono dành cho nam giới thường không có hoa văn, và màu tối hơn.

    Yukata là loại kimono mỏng mặc mùa hè, thường làm bằng vải mát như cotton. Khi đến (suối nước nóng), người ta thường mặc yukata.

    LỊCH SỬ

    Ban đầu, "Kimono" là một từ tiếng Nhật mang nghĩa là "quần áo". Nhưng trong những năm gần đây, từ này được sử dụng để nói đến bộ quần áo Nhật truyền thống. Những bộ Kimono mà ta biết đến ngày nay được ra đời vào triều đại Heian (794 - 1192).

    Từ triều đại Nara (710 - 794) tới lúc đó, người Nhật thường mặc một bộ gồm phần trên và phần dưới (quần hoặc váy) tách rời hoặc một bộ quần áo liền. Nhưng vào triều đại Heian, một công nghệ làm kimono mới đã được phát triển. Được biết tới như là phương pháp straight-line-cut (cắt đường thẳng), nó yêu cầu cắt các mảnh vải theo đường thẳng và khâu chúng lại với nhau. Với công nghệ này, những người làm kimono không còn phải lo lắng về hình dáng của cơ thể người mặc.

    Những bộ kimono straight-line-cut đem lại rất nhiều lợi thế. Chúng rất dễ gấp. Chúng còn phù hợp với mọi thời tiết. Chúng còn được mặc ở bên trong để tạo sự ấm áp trong mùa đông. Kimono làm từ những loại vải mát như lanh rất thích hợp cho mùa hè. Những lợi thế này giúp cho kimono trở thành một phần trong cuộc sống của những người dân Nhật.

    Qua thời gian, Kimono trở thành thời trang, người Nhật bắt đầu quan tâm đến việc phối hợp những bộ Kimono và họ đã phát triển một độ nhạy cao hơn cho màu sắc. Điển hình, sự kết hợp màu sắc thể hiện màu theo mùa hoặc địa vị chính trị của người mặc.

    Vào triều đại Kamakura (1192 - 1338) và triều đại Muromachi (1338 - 1573), cả nam lẫn nữ đều mặc những bộ Kimono đầy màu sắc. Các chiến binh mặc những màu sắc tượng trưng cho thủ lĩnh của họ và đôi khi, chiến trường sặc sỡ như một buổi trình diễn thời trang.

    Vào triều đại Edo (1603 - 1868), tộc chiến binh Tokugawa thống trị khắp Nhật Bản. Đất nước bị chia cắt thành các vùng đất phong kiến được các lãnh chúa thống trị. Các samurai của mỗi vùng đất được nhận biết nhờ màu sắc và kiểu mẫu của đồng phục. Chúng gồm có 3 phần: kimono, bộ y phục không tay mặc ngoài kimono (kamishimo) và quần giống váy xẻ (hakama). Kamishimo làm bằng vải lanh, được hồ cứng để làm nổi bật phần vai. Do làm nhiều y phục samurai, tay nghề những nghệ nhân Kimono càng ngày càng cao và làm Kimono dần trở thành một hình thức nghệ thuật. Kimono trở nên có giá trị hơn và các bậc cha mẹ truyền lại cho con cái họ như một vật gia truyền.

    Trong triều đại Meiji (1868 - 1912), Nhật Bản bị ảnh hưởng mạnh từ văn hóa nước ngoài. Chính phủ khuyến khích người dân chấp nhận trang phục và tập quán phương Tây. Nhân viên chính phủ và quân đội bị bắt buộc phải mặc trang phục phương Tây cho các sự kiện quan trọng của chính quyền. (Luật này không còn hiệu lực nữa). Đối với các công dân bình thường, khi mặc Kimono đến các sự kiện trang trọng, Kimono phải được gắn thêm huy hiệu gia tộc để nhận biết gia tộc người mặc.

    Ngày nay, người Nhật hiếm khi mặc Kimono trong cuộc sống hàng ngày. Họ để dành chúng cho những dịp như đám cưới, đám ma, tiệc trà hay những sự kiện đặc biệt khác như lễ hội mùa hè.

    Các loại Kimono và kiểu dáng

    Chỉ có một phương pháp được dùng để làm Kimono: 1 miếng vải dài 12-13m và rộng 36-40cm được cắt làm 8 mảnh. Những mảnh này sau đó được khâu lại với nhau để tạo ra hình dáng cơ bản cho Kimono. Tất cả mảnh vải đều được dùng, không có phần nào bị vứt đi. Thông thường, loại vải được dùng là lụa nhưng yukata (kimono thông thường mùa hè) thường được làm bằng vải cotton. Công dụng của 8 panel làm cho việc tách kimono ra để thay thế, sửa chữa các vẫn đề như cũ, bị bạc màu, vải bị hỏng panel dễ dàng hơn.

    Kimono có màu nhờ một trong hai cách: vải được dệt từ các sợi chỉ có màu sắc khác nhau hoặc vải dệt được nhuộm màu. Một ví dụ về loại vải dệt bằng chỉ màu nên là oshima-tsumugi. Nó được sản xuất trên đảo Amami-Oshima ở phía nam Kyushu. Loại vải này khỏe và bóng. Một ví dụ khác là yuki-tsumugi, sản xuất ở thành phố Yuki, quận Irabaki. Nó bền đến nỗi nó vẫn còn có thể tồn tại sau hơn 300 năm. Việc nhuộm Kimono bắt đầu với vải dệt trắng mà sau đó sẽ được vẽ hay thêu họa tiết lên đó. Kỹ thuật này sản xuất những loại vải đầy màu sắc. Một ví dụ về việc nhuộm vải là kyo-yuzen, được sản xuất ở Kyoto và được nhận biết bởi sự tỉ mỉ, màu sắc phóng khoáng. Một ví dụ khác là kaga-yuzen, được sản xuất ở thành phố Kanazawa. Kaga-yuzen được nhận biết bởi những hình ảnh thiên nhiên thực tế Lợi thế của vải dệt bằng chỉ màu là nó có màu đều 2 mặt nên nếu mặt trước của vải bị bạc màu thì ta có thể lật sang mặt kia để dùng. Còn lợi thế của vải nhuộm là nếu màu bị phai, ta có thể dễ dàng nhuộm màu mới.

     

    Kimono được mặc với khăn thắt lưng (obi) để giữ cho kimono vào đúng chỗ và giữ kín mặt trước. Obi không chỉ có chức năng như vậy mà còn đẹp. Obi dài khoảng 4m và rộng 30cm. Có 2 loại Obi: fukuro-obi (chỉ được trang trí 1 mặt) và nagoya-obi (ở giữa hẹp hơn để thắt quanh người dễ dàng hơn). Một số obi như Nishiki-obi làm ở Kyoto và Hakata-kenjo làm ở quận Furuoka được đánh giá cao về màu sắc phóng khoáng như vàng hay bạc được dệt lên nó.

    Có nhiều cách để buộc Obi. Loại nơ phổ biến nhất là taiko-musubi được buộc ở đằng sau, phồng ra như gối và trông rất đẹp. Taiko-musubitrở nên phổ biến từ gần cuối triều Edo. Tới khi loại nơ này xuất hiện trên màn ảnh, người ta không thực sự quan tâm lắm về vẻ đẹp của Obi, Obi chỉ như một công cụ để giữ Kimono vào đúng chỗ để mặt trước được kín. Nhưng ngay khi taiko-musubi xuất hiện, rất nhiều kiểu dáng nơ khác cũng xuất hiện theo.

    Vào triều Meiji, người ta bắt đầu dùng Obi với phụ kiện như obi-age và obi-jime. Obi-age giữ miếng độn dùng để tạo thành nơ vào đúng chỗ. Obi-jime được dùng để giữ obi vào đúng chỗ. Công dụng của những phụ kiện với các màu khác nhau kết hợp lại trở thành một cách để người ta khoe gu thẩm mỹ của mình.

    Những vật dụng cần thiết khác dùng với Kimono bao gồm han'eri và tabi (tất xỏ ngón đi với dép zori). Những vật dụng này có màu trắng hoàn toàn để tôn lên màu sắc của Kimono.

    Những sự kiện để mặc Kimono

    Người Nhật cực kì nhạy bén với thời tiết 4 mùa và quần áo của họ luôn theo thời tiết. Người Nhật cũng thường được thông báo về các giai đoạn trong cuộc đời họ. Ví dụ, những sự kiện đặc biệt được tổ chức để đánh dấu các cột mốc quan trọng trong sự trưởng thành của một đứa trẻ và người ta thay đổi những bộ Kimono của họ cho phù hợp cả về thời tiết và sự kiện.

    Trong khoảng 30 - 100 ngày sau khi đứa trẻ được sinh ra, cha mẹ, anh chị em, ông bà đến miếu thờ cùng nhau để báo cáo về sự ra đời của đứa trẻ. Đứa trẻ được mặc 1 bộ Kimono trắng bên trong. Bên ngoài bộ Kimono đó, đứa trẻ mặc 1 bộ Kimono được nhuộm yuzen nếu đó là con gái hoặc 1 bộ Kimono đen được đính huy hiệu gia tộc nếu đó là con trai.

    Một bộ sự kiện quan trọng khác trong cuộc đời một đứa trẻ là lễ hội Shichi-go-san được tổ chức vào tháng 11. Vào ngày này, các bậc cha mẹ đưa con trai 5 tuổi và con gái 7 hoặc 3 tuổi tới miếu thờ địa phương để cảm ơn chúa đã giữ cho con họ khỏe mạnh và chóng lớn. Những đứa trẻ cũng được mặc Kimono trong dịp này.

    Ở tuổi 20, những người trẻ kỉ niệm lễ trưởng thành bằng cách đến miếu thờ vào ngày Thứ hai thứ hai (2nd Monday) của tháng 1. Trong dịp này, các cô gái mặc Furisode và các chàng trai mặc Haori và Hakama có gắn phù hiệu gia tộc.

    Furisode chỉ được mặc bởi phụ nữ chưa có chồng. Ngày xưa, các cô gái trẻ Nhật thường bày tỏ tình yêu với các chàng trai bằng cách "đập cánh" tay áo dài của bộ Furisode Vào lễ cưới, cô dâu mặc 1 bộ Kimono trắng tinh khiết được biết đến với tên gọi Shiromuku. Màu trắng tượng trưng cho sự bắt đầu của một chuyến đi.

    Một khi người phụ nữ đã có chồng thì người họ không mặc được mặc Furisode nữa. Thay vào đó, họ mặc Tomesode, 1 bộ Kimono với tay áo ngắn hơn. Tomesode có thể có màu đen hoặc 1 màu khác. Tomesode đen với phù hiệu gia tộc dùng để mặc trong các sự kiện trang trọng như đám cưới của một người thân. Tomesode có màu sắc khác cũng có thể được mặc trong các sự kiện đó nhưng chúng thường không có gắn phù hiệu gia tộc. Cách nhận biết Tomesode đơn giản nhất là chỉ có phần vải bên dưới mới được trang trí.

    Có rất nhiều loại Kimono dành cho phụ nữ. Khi thực hiện một cuộc viếng thăm theo nghi thức, phụ nữ mặc Homongi được trang trí bằng họa tiết khắp vải. Tsukesage được mặc trong các buổi tiệc, tiệc trà, cắm hoa và đám cưới của bạn bè.

    Để mặc bình thường, có thể chọn Komon, được trang trí toàn bộ bởi các họa tiết nhỏ, nhẹ nhàng và Tsumugi với các họa tiết sáng và rõ ràng hơn.

    Dù sự kiện để mặc là gì, người Nhật luôn nghĩ đến yếu tố thời tiết trước khi quyết định sẽ mặc bộ Kimono nào. Các màu nhạt như xanh sáng thích hợp cho mùa xuân, các màu mát như tím nhạt hay xanh đen thích hợp để mặc cho mùa hè. Mùa thu phù hợp với những màu mô phỏng màu sắc lá rụng và mùa đông là mùa cho những màu mạnh mẽ như đen và đỏ.

    Vào mùa hè, người Nhật thích đi xem pháo hoa và thường đến các lễ hội mùa hè. Vào những lúc này, họ mặc Yukata. Trong quá khứ, người Nhật thường mặc Yukata lúc vừa tắm xong nhưng bây giờ chúng đã được mặc định là đồ mặc mùa hè bình thường, được mặc bởi người Nhật mọi lứa tuổi, mọi giới tính. Hầu hết các bộ Yukata được làm bằng cotton, Theo truyền thống, chúng có màu navy kết hợp với màu trắng nhưng trong những năm gần đây, những mẫu thiết kế đầy màu sắc đã xuất hiện.

    Dù Kimono không còn là trang phục mặc hàng ngày của người Nhật, họ vẫn thích mặc Kimono vào nhiều lúc suốt cả năm. Khi đó, họ dùng vải, màu sắc và kiểu dáng của Kimono để bộc lộ tình yêu của họ dành cho 4 mùa.

    Kimono của Geisha 

    Vỉ Geisha không phải là các phụ nữ lo việc nội trợ bình thường, nên không chỉ có sự khác biệt về gương mặt mà còn khác biệt về các ăn mặc. 

    Susohiki là áo Kimono truyền thống của Geisha. Tay áo làm người ta liên tưởng đến áo Tomesode. Màu sắc áo tùy theo mùa và dịp rất khác biệt, từ màu đen đến màu tím. Tuy nhiên phần nhiều là áo có màu đậm, không sặc sỡ nổi trội, vì Geisha không gây sự chú ý qua dáng vể bề ngoài mà qua phong cách của họ. Ngoài ra áo Susohiki - Kimonos rất dài trong lúc mặc, áo có thể quét trên nền nhà trong lúc đi lại, tuy nhiên Geisha không bao giờ để việc này xảy ra. Trong các buổi chụp hình, như áo đám cưới Uchikaka và Shiromuki, áo Susohiki đặt thòng xuống nền nhà, khi bước đi lại phải vén lên. Geisha mang dép Zori với áo Susohiki hoặc trời mưa thì mang dép gỗ Getas. 

    Áo Hikizuri là áo truyền thống cho các Geisha tập sự (Maiko). Maiko khác với Geisha ở vẻ bề ngoài. Trong khi Geisha đã có tuổi trang điểm nhẹ, cử chỉ và thái độ kín đáo, thì Maiko trang điểm đậm màu, nổi trội, dùng nữ trang Kanzashi, đi giày plateau (giày đế dầy), để ra dáng trẻ con, vì Maiko cần phải gây ấn tượng trẻ trung. Ngày xưa Maiko bắt đầu từ 6 tuổi rưỡi và ngày nay thì từ 16 tuổi. Áo Hikzuri vì vậy thường được trang trí với các mẫu nhiều màu sắc và thường có xanh lá cây chói, hoặc màu xanh dương. Mục đích tạo dáng trẻ con và sự khác biệt với các Geisha. Áo Hikizuri có tay dài, tuy nhiên vẫn ngắn hơn ao Furisode, vì có thể gây khó khăn trong lúc nhảy múa. Ngoài ra áo cũng có chiều dài giống như áo Susohiki.

    1 Bảo vệ cổ áo khỏi bụi và mồ hôi  (共衿, tomoeri, nếu được làm từ cùng lọai vải, bzw. 掛衿, kakeeri, nếu được làm từ lọai vải đậm màu hơn)
    2 Cổ áo (本衿, hon’eri bzw. 地衿, jieri)
    3 thân áo trước bên phải  (前身頃, maemigoro)
    4 thân áo trước bên trái  (dito)
    5 Tay áo  (袖, sode)
    6 Túi trong tay áo (袂, tamoto)
    7 vạch độn bên phải  (衽, okumi)
    8 vạch độn bên trái (dito)
    9 Điểm cắt của mặt trước và cổ áo (剣先, kensaki)
    10 Chiều dài áo (身丈, mitake)
    11 Chiều dài tay áo  (裄丈, yukitake)
    12 Chiều rộng vai áo (肩幅, katahaba)
    13 Chiều rộng tay áo  (袖幅, soehabe)
    14 Chiều dài tay áo (袖丈, sodetake)
    15 Lỗ tay áo  (袖口, sodeguchi)
    16 Lỗ tay (袖付, sodetsuke)

    1 Tay áo phải
    2 Tay áo trái
    3 Thân áo trước bên phải 
    4 Thân áo trước bên trái 
    5 Vạch độn bên phải 
    6 Vạch độn bên trái 
    7 Bảo vệ cổ áo
    8 Cổ áo 
     
    (theo Wiki)